Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội

Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 9/1/2003 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ BHXH quy định việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với lao động làm việc ở tất cả các đơn vị, tổ chức theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn và có thời hạn từ 3 tháng trở lên( không còn điều kiện số lao động nữa);

Lịch sử phát triển ngành BHXH Việt Nam được đánh dấu như một bước phát triển mới là vào ngày 29 tháng 6 năm 2006 Luật BHXH số 71/2006/QH11 ra đời. Về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo Luật thì không thay đổi so với NĐ 01/2003/NĐ-CP, nhưng về các chế độ thì có thay đổi và bổ sung thêm loại hình BHXH tự nguyện thực hiện từ 01/01/2008 và bảo hiểm thất nghiệp thực hiện từ 01/01/2009;

Tiếp theo là Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 12 năm 2006 hướng dẫn một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc.

Tất cả là một chặng đường dài tất yếu của sự phát triển và từ năm 1995 đến nay mới thực sự có những cải cách về chính sách BHXH và đánh dấu thời kỳ phát triển mới về sự nghiệp BHXH. Những nội dung cụ thể đánh dấu bước cải cách về BHXH ở nước ta là:

Đối tượng tham gia BHXH bao gồm cả người lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế.

Hình thành được quỹ BHXH trên cơ sở đóng góp của 3 bên: người sử dụng lao động, người lao động và sự bảo hộ của Nhà nước (người sử dụng lao động đóng 15%, người lao động đóng 5%). Quỹ BHXH hoạt động độc lập với NSNN.

Các chế độ BHXH gồm: ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN, hưu trí và tử tuất, sau đó đã bổ sung thêm chế độ nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức khỏe(Quyết định số 37/2001/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/03/2001).

Hệ thống BHXH Việt Nam được hình thành 3 cấp từ Trung ương đến địa phương – Một hệ thống thống nhất chuyên trách tổ chức thực hiện chính sách và quản lý quỹ BHXH. Từ năm 2002 đã chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam.