Kinh nghiệm phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ở Philipine và Đài Loan

1. Philipine: Chính sách tự do hoá nền kinh tế của Chính phủ Philipine đã cho phép ngành BH PNT mở cửa sau 26 năm ngừng cấp giấy phép hoạt động KDBH. Từ năm 1990, tổng thống Corazon Aquino đã xoá bỏ lệnh cấm cấp giấy hoạt động cho các công ty BH nội địa mới và sau đó, tháng 10 năm 1994, TTBH nội địa đã được mở cửa cho các công ty BH nước ngoài. Chính sách mở cửa TTBH đã được tiến hành từng bước, với nội dung như sau:

– Hình thức doanh nghiệp: cho phép KDBH PNT dưới một trong ba hình thức pháp lý: Công ty BH liên doanh, công ty BH 100% vốn nước ngoài và chi nhánh công ty BH nước ngoài (riêng hình thức chi nhánh không áp dụng đối với hoạt động trung gian BH).

– Cơ sở lựa chọn; công ty được cấp giấy phép phải là công ty thuộc khu vực địa lý phù hợp, có đăng ký thành lập tại nước có quan hệ thương mại và đầu tư với Philipine, có năng lực tài chính lớn, có uy tín và vững vàng trong hoạt động cạnh tranh, đảm bảo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm và kỹ thuật BH với thị trường trong nước.

– Tiêu chuẩn xem xét công ty: công ty được xét cấp giấy phép phải là một trong số 200 công ty BH, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm hàng đầu thế giới hoặc một trong số 10 công ty đứng đầu tại nước nguyên xứ và đã có thời gian hoạt động ít nhất 10 năm tính đến ngày xin cấp giấy phép, đối với hình thức chi nhánh hay công ty 100% vốn nước ngoài, công ty xin cấp phép phải có số lượng cổ đông lớn (mỗi cổ đông không được phép sở hữu quá 20% số cổ phiếu) hoặc cổ phần của công ty phải được niêm yết công khai trên thị trường chứng khoán (trừ các công ty do Chính phủ nắm giữa phần lớn vốn).

– Tiến độ và số lượng công ty được cấp giấy phép: Trong hai năm đầu mở cửa, mỗi năm Philipine dự kiến cấp giấy phép cho 5 công ty dưới hình thức chi nhánh và công ty liên doanh với tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài lớn hơn 40%. Sau hai năm, số lượng các công ty này có thể lên 10 công ty mỗi năm. Sau một thời gian thực hiện kế hoạch tự do hoá, trong lĩnh vực BH phi nhân thọ đã thu được kết quả như sau: Phí BH phi nhân thọ năm 1994 so với năm 1993 tăng 145% (từ 213 triệu USD lên 309 triệu USD) trong đó 86 công ty BH Nhà nước chiếm 88%, 5 công ty không thuộc Nhà nước chiếm 6% và 10 công ty nước ngoài chiếm 6% thị phần 1994. Đến 2004 doanh thu phí BH phi nhân thọ đã đạt gần 1tỷ USD.

2. Đài Loan: Trước1987, toàn bộ TTBH PNT Đài Loan nằm dưới sự độc quyền của một số công ty BH PNT Nhà nước. Từ năm 1987, trước sức ép của Mỹ, một số công ty BH PNT Mỹ được phép mở chi nhánh. Từ năm 1994, Đài Loan đã xoá bỏ hạn chế trong việc cho phép các công ty BH PNT nước ngoài KDBH tại lãnh thổ này dưới hình thức chi nhánh và công ty 100% vốn nước ngoài. Do đó đã thúc đẩy quá trình tự do hoá TTBH PNT Đài Loan. Tính đến năm 2001, số lượng công ty BH nước ngoài là 21 công ty, chiếm gần 40% tổng số công ty hoạt động (21/53 công ty). Doanh thu phí BH phi nhân thọ tăng 181,8 % trong giai đoạn 1991 – 1995 từ 1,54 tỷ USD lên 2,8 tỷ USD.